Menu

Nhà thơ Vĩnh Mai

Trong số các nhà thơ, nhà văn quê hương Quảng Trị, Vĩnh Mai là một tác giả đáng ghi nhận, một nhân cách đáng kính, một người trí thức đầy lòng tự trọng, một người cộng sản chân chính.
 
Nhắc đến Vĩnh Mai, người đọc nhớ ngay đến bài thơ "Khóc Hoài" nổi tiếng của ông. Nó hoàn toàn xứng đáng đủ tư cách đứng ngang hàng với bài thơ "Viếng bạn" của Hoàng Lộc và những thi phẩm khóc bạn, khóc người cùng chí hướng lưu danh trong lịch sử văn học Việt Nam. Bài thơ này đã làm nên danh xưng của Vĩnh Mai -"nhà thơ một bài" dù sự nghiệp sáng tác của ông không chỉ là ngần ấy. Nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường khi nói về "Khóc Hoài" đã nói rằng bài thơ gợi đến chất lấm láp, khỏe khoắn của hội vật làng Sình, cứ "mi mi tau tau" tỉnh bơ mà tình cảm như xoáy vào gan ruột. Đến nay khi thời gian sáng tác bài thơ đã qua hơn nửa thế kỷ mà nhiều người cao tuổi ở Bình Trị Thiên vẫn nhớ đến tiếng thơ khóc bạn, có người còn đọc thuộc. Đó là hạnh phúc đích thực đối với một người cầm bút . 
 
 

Tau với mi hẹn nhau từ khu bộLúc trở về cố sáng tác văn chươngĐến tỉnh nhà lại mỗi đứa mỗi đườngLo công việc không một ngày được nghỉTau ao ước giữa văn nhân nghệ sĩGặp lại mi để bàn chuyện lâu dàiNhưng một hôm như sét đánh ngang taiTau sửng sốt nghe tin mi đã chếtTau buột miệng kêu lên "thế là hết"Tau mất thêm một thằng bạn văn chương ...

...Mi lại chết ! Trời ơi là uất ứcMi táo bạo về ngay chi Phú LộcĐể cho Tây phục kích bắn mi đi !Tau biết rồi tính mi vốn khinh khiCoi mạng sống như đồ chơi con trẻTau nhớ mãi dáng hình mi mạnh mẽBước mi đi chắc nịch như trâu tơTâm hồn mi trong trắng như bài thơCủa một chú học sinh mười sáu tuổiSay lý tưởng, mi yêu đời đắm đuốiVà hiến đời trai trẻ cho công nôngNgày mai đây dưới bóng đẹp cờ hồngMi vắng mặt buồn cho tau biết mấy!

Bằng những nét tạo hình chắc khỏe, thô mộc, sần sùi đã khắc họa được chân dung một trí thức hiến trọn đời mình cho độc lập, tự do và hy sinh lẫm liệt trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Một trí thức hòa mình vào cuộc chiến tranh nhân dân trường kỳ với dáng vẻ ngang tàng coi thường nguy hiểm. Đó là tượng đài hiếm hoi bằng thơ về người trí thức xả thân vì nghĩa lớn trong văn học Việt nam hiện đại.

Bạn đọc biết ít về Vĩnh Mai thường có cảm nhận rằng tác giả bài thơ "Khóc Hoài " chắc hẳn là một nông dân thích sáng tác văn chương. Đó cũng là một thành công của bài thơ khi mang đầy hơi thở của kháng chiến và đời sống của những người áo vải. Nhưng nếu đọc tiểu sử của ông thì mới biết Vĩnh Mai là một tú tài thứ thiệt, thi đỗ thứ nhì vào trường Quốc học Huế lừng danh, một trí thức thực sự. Ông tên thật là Nguyễn Hoàng, người làng An Tiêm, Triệu Thành, Triệu Phong.

Ông là một nhà hoạt động cách mạng, vào Đảng năm 1939, năm 1940 bị giặc bắt bỏ tù ở nhà đày Buôn Ma Thuột. Sau cách mạng Tháng Tám ông đã giữ các chức vụ quan trọng như Bí thư Thành ủy Huế, Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị. Khi hòa bình lập lại, ông sống ở miền Bắc, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam với mong muốn hoạt động văn nghệ chuyên nghiệp. Cuộc đời ông gặp nhiều biến động, trắc trở cho đến khi qua đời.

Nhưng cho dù trong mọi tình huống, ông vẫn là người cách mạng chân chính luôn ưu dân ái quốc, là một trí thức ngay thẳng, chân tình, luôn suy nghĩ, chiêm nghiệm, giữ trọn chính kiến và niềm tin cho đến phút cuối cùng. Dù cuộc đời gặp nhiều khó khăn, sóng gió nhưng Vĩnh Mai đúng là người mà "Uy vũ bất năng khuất, bần tiện bất năng di" như người xưa đã nói. Huân chương Độc lập cao quý truy tặng cho ông, đã ghi nhận phần nào cuộc đời của một trí thức văn nghệ sĩ đích thực.

Bây giờ, trong không khí cởi mở hơn nhiều, chúng ta hay nói đến phản biện. Nhưng trong không khí thời chiến căng thẳng của thời kỳ chống Pháp, Vĩnh Mai đã không rập khuôn mà có lối tư duy độc lập, luôn có đầu óc phản biện để làm sáng tỏ chân lý. Chẳng hạn như khi học chính trị về kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi, Vĩnh Mai đã thuyết phục cả hội trường bằng lý luận sắc sảo của mình rằng điều đó sẽ là hiện thực. Nhưng khi đổi bên để tranh luận, thì một mình Vĩnh Mai cũng đã lập luận rằng kháng chiến trường kỳ nhất định sẽ không thắng lợi và cả hội trường cũng đã chịu thua. Tất nhiên, trước sau Vĩnh Mai vẫn là người cộng sản trung kiên, tin và chung thủy với điều mình đã chọn. Nhưng ví dụ trên cho thấy sinh động về một trí thức năng động trong tư duy và biện luận, luôn biết trăn trở tìm tòi phản biện, mà mục đích là để vinh danh lẽ phải, không thụ động nghe theo những tín điều đóng gói, dù nó được nhiều người coi là đúng đắn.

Ngày nay, chúng ta nói nhiều đến cải cách hành chính, giảm bớt những cuộc họp không cần thiết, điều mà nhà thơ Xô Viết Maiacôpxki đã từng kêu lên trong bài thơ "Những người loạn họp" thì nhà thơ Vĩnh Mai cách đây hơn nửa thế kỷ đã than phiền bằng thơ trào phúng, một mảng sáng tác khác của ông chưa được nhiều người biết đến:

Ngang lưng thì thắt phương châmĐầu đội chính sách, tay cầm chủ trươngĐôi chân đứng vững lập trườngHữu thân hữu họp không đường mà ra?

Một tính cách ngay thẳng, cứng cỏi như Vĩnh Mai dĩ nhiên là coi thường, khinh ghét những kẻ cơ hội, xu nịnh, giả dối, bất tài mà luồn lọt, hại người. Vì vậy ông đã có bài thơ châm "Có một chàng":
Trời đất sinh ra có một chàngChỉ tài nịnh hót với huênh hoangGặp trên khúm núm lưng tôm bạcThấy gái nho nhoe đít cá vàngViết chẳng ra văn nhưng lách giỏiLàm không được việc lại chơi sangSuốt đời chỉ một anh dang dởChính trị nửa mùa văn nghệ lang!

Cũng với cá tính như thế nên Vĩnh Mai hay bị góp ý phê bình, thậm chí nhiều lúc phải ngồi viết kiểm điểm. Một hôm như vậy, ông bèn ngồi viết bài thơ tự trào có tên là "Cái lưng":Cái lưng anh giống cây chò
Đứng giữa mưa dầm, giữa gió toKhông biết nghiêng qua không biết uốnChả hay còng lại chả hay bòLắm khi thiên hạ leo lên cưỡiNhiều lúc người đời xúm đánh cho Mới biết ngay lưng là khổ thếĐêm đông cũng không được nằm ...co !
 
Trí thức chân chính là người hay nghĩ, trước hết là nghĩ về vận mệnh đất nước, số phận nhân dân. Ngay khi miền Bắc trở lại hòa bình sau cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà thơ đã nhìn thấy những căn bệnh của hòa bình, những nguy cơ phải được nhìn thấy và giải quyết. Trong nhật ký của mình (đã được xuất bản trong hồi ký văn học "Sống với nhà thơ Vĩnh Mai", nhà xuất bản Thuận Hóa năm 2003), nhà thơ trăn trở viết: "Sao ngày nay về đến nông thôn, ngoảnh mặt vào đâu cũng có thể thấy tự tư tự lợi, cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, cằn cọc.

Cùng đảng viên với nhau trong một tổ, cùng ăn sương nằm đất với nhau trong hồi kháng chiến, cùng xã viên trong một hợp tác xã với nhau, cùng bà con thôn xóm với nhau, sao họ nỡ vì một giòng rau muống, vì một cụm lúa nỡ đánh chết của nhau con gà, con vịt? Vì sao chỉ vì ít nước, đường cày, bờ ruộng mà họ nỡ chửi bới nhau suốt mấy ngày ..."

Cũng trong cuốn hồi ký này, nhìn thấy nguy cơ của căn bệnh khao khát làm quan, tham danh, hám lợi, nhà thơ đã thốt lên: Thuốc nào chữa được bệnh khanh tướng?

Năm 2001, nhà thơ Vĩnh Mai được Chủ tịch nước truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì, một sự vinh danh cao quý. Cuộc đời và nhân cách của ông từ lâu đã được nhiều đồng nghiệp, bằng hữu và hậu thế ngưỡng vọng . Nên nhiều người vẫn ao ước rằng: Giá như đời này có được nhiều hơn một Vĩnh Mai!
Đọc tiếp…

Lâm Hoằng, một người con ưu tú của quê hương Quảng Trị

Lâm Hoằng là vị quan đại thần của triều Nguyễn, đã có công lao to lớn trong việc xây dựng đất nước, chống lại quân xâm lược Pháp nửa cuối thế kỷ XIX. 
Thành Trấn Hải ở Cửa biển Thuận An, Huế - nơi Lâm Hoằng tuẫn tiết
1. Lâm Hoằng - một đức tính kiên trì, ham học
Ông sinh ngày 28 tháng 2 năm 1824 (Giáp Thân) thuộc làng Gia Bình, xã Gio An, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.
Theo gia phả tại làng Gia Bình, kể từ cụ Thuỷ Tổ Lâm Kim Bảng đến cụ Lâm Hoằng ít nhất cũng được 7 đời nối tiếp sinh sống ở vùng rừng núi phía Tây Quảng Trị. Đến đời cụ Lâm Hoằng mới là người đầu tiên trong dòng dõi họ Lâm thi đỗ đến đại khoa. Hiện tại chưa tìm ra được tư liệu cho biết hoàn cảnh nào Lâm Hoằng được đi học, học ở đâu, với thầy nào. Nhưng theo tài liệu chính sử cho biết đến khoa thi Đinh Mão năm 1867 cụ Lâm Hoằng thi đậu Cử nhân (năm 45 tuổi); đến khoa thi Mậu Thìn 1868 thi đậu Phó bảng(1). Sách Đại Nam thực lục chính biên, Đệ tứ kỷ, Tập XXXI, NXB Khoa học xã hội (1975 - 1976), trang 208, ghi: “Năm 1867 cho những người sau đây đỗ Tiến sĩ (đệ II giáp: Vũ Nhự, đệ III giáp: Bùi Ước, Dương Khuê, Nguyễn Tái). - Đỗ Phó bảng: Võ Duy Tân (Tuân?), Nguyễn Quán (Hoan?), Nguyễn Thuật, Vũ Văn Bảo, Khuất Duy Hài, Hoàng Dụng Tân, Tô Huân, Phan Đình Vận, Lê Khánh Thiện, Lê Doãn Thành, Lâm Hoằng, Nguyễn Đình Tựu”. Trong danh sách trúng tuyển, Lâm Hoằng được xếp đứng thứ 14, có thể nói rằng tuy xếp sau những vị ấy, nhưng nếu nhìn chung cả nước, theo thể chế thi tuyển nhân tài hồi ấy rất chặt chẽ, nghiêm túc và trang trọng. Ba năm một lần nhà vua mới mở kỳ thi, một cuộc tuyển chọn cao nhất, khó nhất cho cả nước, tập trung hàng ngàn sĩ phu học rộng, tài cao tập trung cùng nhau đua tài, dưới sự trực tiếp xét duyệt của triều đình và nhà vua, và chỉ 15 vị được trúng tuyển. Có thể nói rằng, việc Lâm Hoằng đỗ đạt đại khoa, mở ra truyền thống khoa bảng; đây là niềm tự hào lớn không chỉ của dòng họ Lâm làng Gia Bình, mà là cả một niềm tự hào lớn của vùng đất nghèo khó tỉnh Quảng Trị.


Lăng mộ Lâm Hoằng tại xã Gio Bình, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị
2. Công tác nội trị, chăm lo cho dân
Lâm Hoằng là một vị quan có tấm lòng nhân ái, trung nghĩa, luôn thương yêu, chăm lo cho dân. Điều đó được thể hiện qua từng lời nói, hành động và việc làm của Ông. Do điều kiện của lịch sử, chiến tranh nên những bài văn, sớ tâu lên vua về việc nước, việc dân... và ngay cả bài văn sách của Lâm Hoằng trả lời câu hỏi trong đề thi khoa thi năm Mậu Thìn 1868 đã bị thất lạc, chưa sưu tầm được. Đó là một thiệt thòi, tuy nhiên trong chính sử của nhà Nguyễn và một số sách nghiên cứu lịch sử sau này đã ghi chép về một số lời nói, thái độ, và việc làm của Lâm Hoằng. Đó là những thông tin rất ít ỏi nhưng rất quý báu để minh chứng cho cốt cách và nhân phẩm của Ông trước thời cuộc đầy biến động lúc bấy giờ.
Đại Nam thực lục chính biên, đệ tứ kỷ, Tập XXXIV, trang 242 có ghi: “Năm 1879,... Bố chính tỉnh Quảng Ngãi là Lâm Hoành (Lâm Hoằng) tâu lên nói: dân tình thiếu ăn, chuẩn cho lấy gạo ở kho ra 4.000 phương để chuẩn cấp cho dân, Hoành (Hoằng) lại hiểu thị khuyên nhà giàu quyên giúp, gia thưởng đều có thứ bậc (500 quan trở lên thưởng 1 chiếc bài bạc, nặng 5 đồng cân, 1000 quan trở lên, thưởng 1 chiếc bài bạc, nặng 1 lạng)...vua không cho.” Đến trang 254, sách đã ghi: “ Bố chính sứ Quảng Ngãi là Lâm Hoằng dâng sứ tâu: dân hạt ấy quẩn bất ngày càng quá, xin trích lấy tiền gạo ở kho chuẩn cấp cho dân. Vua chuẩn trích ra 1 vạn quan tiền, 1 vạn phương gạo, lần lượt chuẩn cấp và giao cho các phủ huyện, cấp thuê dân nghèo sửa đắp cầu đường thay cho phát chẩn” Đến trang 303 (Sách đã dẫn) ghi: “Năm 1880,... Bố chính sứ Quảng Ngãi là Lâm Hoằng dâng sớ tâu: thuộc hạt ấy nhiều lần gặp mất mùa, lương thực của dân chưa thư, xin triển hoãn lại. Vua cho là tình hình các hạt tả, hữu trực kỳ cũng giống như tỉnh Quãng Ngãi. Nên cho hoãn kỳ tuyển lính cho các hạt, Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi”.
Những sự kiện mà Đại Nam thực lục chính biên đã ghi chép lại ở trên cho chúng ta biết rằng tình hình lúc bấy giờ, được thể hiện qua các điểm sau:
- Mất mùa triền miên nên dân tình đói nặng, khổ cực, hằng năm phải bị tuyển lính nên không đủ sức sản xuất. Trước cảnh tình cơ cực, cụ Lâm Hoằng dâng sớ tâu vua xin cho cứu dân, với ba biện pháp trước mắt là: Trích kho gạo của Nhà nước để chuẩn cấp; Khuyến khích nhà giàu quyên góp trợ giúp, bằng khen thưởng; Hoãn kỳ tuyển lính.
- Vua Tự Đức là một ông vua chuyên chế, trực tiếp quyết định mọi việc do đình thần tâu lên; nếu đã tâu lên mà bị vua bác bỏ thì có ai dám tâu lại, sẽ mắc tội là nghịch thần.
- Lâm Hoằng lúc bấy giờ với chức quan là Bố chính của một tỉnh, chưa phải là bậc đại thần của triều đình, không phải là cận thần bên vua. Việc Cụ tâu đi tâu lại nhiều lần mong nhà vua chấp thuận cứu đói cho dân đâu có dễ dàng, đôi khi còn mang vạ vào thân. Điều đáng lưu ý là năm 1879, Lâm Hoằng tâu xin vua chuẩn y việc cứu đói, nhưng vua Tự Đức không chấp thuận. Ông không rút lui mà tiếp tục tâu lên lần thứ hai. Ắt rằng trong lần tâu sau, lời lẽ văn chương của Lâm Hoằng đã trình bày chân thành thống thiết thế nào, và về nhân cách của một vị Bố chính thương yêu, chăm lo cho dân đã khiến cho vua Tự Đức chấp thuận những điều mà Lâm Hoằng đã tâu lên. Đại Nam thực lục chính biên, trang 255 ghi: “Nhân đó vua dụ rằng: dân tình ở Quảng Ngãi rất là đáng thương. Việc phát chẩn để cứu, hết thảy cứ đợi báo, thì dân đã khốn khổ lắm. Nên thông sức cho các địa phương, nếu có việc mà giống như thế, đều chiếu lệ mà làm, để hết trách nhiệm chăn dân, và hết sức bàn tính, làm thế nào cốt được sống nhiều người, để trên được đỡ lo dưới được giúp sức khẩn cấp mới xứng chức vụ”. Như vậy, với lòng tha thiết mong cứu được dân, không sợ mắc tội khi quân, khi tâu lại lần hai với vua Tự Đức, một vị vua chuyên chế, quan liêu. Chính điều này, đã thể hiện sự dũng cảm quên mình vì dân của ông. Và đã làm lay chuyển lòng trắc ẩn của vua Tự Đức. Vua đã đồng ý những điều mà Bố chính Quảng Ngãi đưa lên. Không những thế, lại còn mở ra được thuận lợi mới là từ nay, các quan địa phương được phép cứu giúp dân ngay khi gặp nạn đói nặng, không phải đợi nhà vua chuẩn cho nữa. Và như trên đã thấy, việc hoãn kỳ tuyển lính để cho dân có sức sản xuất, không chỉ trong phạm vi Lâm Hoằng phụ trách mà được thêm bốn tỉnh khác có cùng cảnh ngộ khó khăn. Rõ ràng, với tấm lòng nhân ái, thương dân, sự kiên trì, dũng cảm và khôn khéo trong từng lời trình tấu của Lâm Hoằng, mà kết quả đạt được nhiều hơn mong ước.
3. Xả thân vì nước 
 Năm 1882, sau khi đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai, Hoàng Diệu tử trận, quân Pháp đánh rộng ra các tỉnh Bắc Kỳ và chuẩn bị tiến công cửa biển Thuận An, yết hầu sống còn của kinh thành Huế. Việc tăng cường phòng thủ trở nên cấp thiết ở ngay cửa ngõ này.Trước tình thế rất nguy cấp Lâm Hoằng tâu lên vua: “Cửu ngõ Thuận An là cửa ngõ kinh sư, sự phòng bị rất là quan yếu. Người giữ chức vụ nên phải mười phần sửa sang xem xét, để phòng sự việc không ngờ. Thế mà từ tháng trước đến nay, nhiều lần tiếp các nha tư khẩn cấp những đồ dùng ở bờ biển ấy, trong đó mục nát hư hỏng kể đến trăm nghìn, tu bổ không phải mười ngày kịp được, chợt có sự biến trông cậy vào đâu?” (Đại Nam thực lục chính biên,sđd, Tập XXXV, trang 118). Đến trang 119 (Sách đã dẫn) chép: “Quan viện cơ mật và Thượng bạc là bọn Trần Tiễn Thành(2) cho những lời nói ấy so với thời thế chưa phải là kế sách nên làm, mà việc phòng giữ ở cửa biển chưa được chắc chắn, làm thêm cũng chưa chắc đã vững bền, tỏ cho người biết bờ ngoài, chỉ thêm nghi ngờ bắt bẻ. Xin đình việc đắp luỹ ở Thuận An mà phải rút hết biền binh phải thêm về kinh chuyên việc huấn luyện...Vua nghe lời ấy bãi bỏ việc đắp luỹ thêm quân ở Thuận An”.
Như vậy, trong tình hình quân Pháp rất hung hăng, sắp đánh chiếm kinh thành, nạn mất nước sắp xảy ra. Trước tình thế đó Lâm Hoằng dâng kế gấp rút phòng thủ, trước hết củng cố tăng binh, đắp thành lũy ở cửa biển Thuận An vì do lâu nay bị xuống cấp, hư hỏng nhiều. Đồng thời vạch tội vô trách nhiệm của những vị quan chức đã bỏ bê việc phòng bị, không chăm sóc củng cố cơ sở chiến đấu mà để hư hỏng. Việc trình tấu sự xuống cấp ở cửa biển Thuận An là gián tiếp vạch tội Trần Tiễn Thành, người đứng đầu viện cơ mật nắm quyền quyết định kế hoạch quốc phòng. Đồng thời cũng là công khai đi ngược lại chủ trương cầu an của Trần Tiễn Thành, góp thêm tiếng nói kiên quyết của những người yêu nước không sợ giặc, mà quyết giữ đến cùng. Rõ ràng những thái độ của Lâm Hoằng là công khai và một sự thách thức, đối đầu rất dũng cảm đối với bọn cầu an đang có thế lực rất lớn ở triều đình, đứng đầu là Trần Tiễn Thành mà vua đang tin dùng. Đồng thời Ông cũng không sợ đụng chạm đến lòng tự ái của nhà vua cũng đang có ảo tưởng mong được giặc để cho yên. Vì vậy, vua đã nghe theo lời của Trần Tiễn Thành nên bãi bỏ việc củng cố đồn luỹ và cho quân trực chiến rút lui.
Tình thế rất khẩn trương, vua Tự Đức phải giao cho Tôn Thất Thuyết làm Thượng thư Bộ binh thay cho Trần Tiễn Thành sang làm Thượng thư Bộ lại, phái chủ chiến được thêm quyền thế, nhưng phái cầu hòa vẫn đang còn thế lực. Năm 1883, việc tăng cường phòng thủ ở cửa biển Thuận An được tiếp tục trở lại. Chính trong mấy tháng còn lại cuối đời của vua Tự Đức, Lâm Hoằng đang giữ chức Tham tri Bộ công được phái xuống của biển Thuận An sung chức Phó phòng luyện cùng hai quan võ đang trấn giữ thành là Hữu Quân Đô thống Lê Sỹ và Thống chế Lê Chuẩn trực tiếp tham mưu và thay mặt triều đình quyết định việc chống giặc.
Ngày 16/8/1883, Đô đốc Courbet thống lĩnh tám tàu chiến với nhiều đại bác 65 ly với sức công phá lớn và hơn ngàn lính Pháp kéo đến tiến đánh cửa biển Thuận An. Lâm Hoằng cùng các vị quan trấn giữ lên mặt thành trực tiếp chỉ huy quân lính chống trả mãnh liệt. Quân triều đình bắn súng thần công, nhưng do đạn quá thô sơ nên không đánh phá chìm tàu địch. Giặc Pháp cho hoả lực bắn trả ác liệt hơn, nhiều pháo luỹ bị phá huỷ. Sau ba ngày chống trả, nhiều quan binh của triều đình bị tử trận; không để rơi vào tay giặc, Lâm Hoằng đã gieo mình xuống sông tuẫn tiết. Thành Trấn Hải, Thuận An rơi vào tay giặc.
Với những công lao to lớn và sự hy sinh anh dũng của Cụ Lâm Hoằng trong trận quyết chiến với quân Pháp tại cửa biển Thuận An ngày 16 tháng 8 năm 1883, triều đình đã truy phong cho Lâm Hoằng là "Công Bộ Thượng thư"(3) và cho quân lính đưa về an táng tại quê nhà thuộc làng Gia Bình, tổng An Định, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị (nay là thôn Xuân Mai, xã Gio Bình, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị). Bài vị của Cụ được đưa vào thờ trong Đền Trung Chính của triều đình nhà Nguyễn.
Có thể nói rằng, cuộc đời và sự nghiệp của Lâm Hoằng là tấm gương sáng về sự hiếu học,  yêu thương dân, luôn chăm lo đến đời sống của dân; đặc biệt là tinh thần yêu nước, sự xả thân, chống trả giặc đến hơi thở cuối cùng của ông trong trận ngày 16 tháng 8 năm 1883 đáng để người đời kính trọng, noi theo. Nhằm ghi nhận và tri ân đến những công lao to lớn đó, di tích lăng mộ Lâm Hoằng được công nhận là di tích theo Quyết định Số 2048/QĐ-UBND, ngày 31/10/2013 của UBND tỉnh Quảng Trị; đồng thời UBND tỉnh cũng thông qua đề án đặt tên các con đường, trong đó có đường Lâm Hoằng ở thành phố Đông Hà.


Đường Lâm Hoằng ở thành phố Huế
Chú giải:
1: Phó bảng: Văn bằng (sắc) do vua ban cho những người đậu kỳ thi Hội. Phó bảng(Tiếng Hoa: Ất tiến sĩ ) là một học vịtrong hệ thống giáo dục Việt Namthời nhà Nguyễn(1802 - 1845).Phó bảng là học vị ở dưới Tiến sĩ, trên Cử nhân. Người đi dự thi Hội mà không đủ điểm đỗ Tiến sĩ, được lấy đỗ thêm để khuyến khích, tên ghi vào một bảng phụ, nên gọi là Phó bảng. Thông thường đỗ Tiến sĩ người ta gọi là Giáp Khoa tiến sĩ, còn Phó bảng là Ất Khoa tiến sĩ. Văn bằng này có từ khoa thi Kỉ Sửu Minh Mạng thứ 10 (1829). Ai đã được đỗ Phó bảng rồi thì không được để lấy Tiến sĩ; trừ khi có mở khoa đặc biệt. Do đó người ta xem Phó bảng tương đương với Tiến sĩ (Trích: Nguyễn Q. Thắng - Khoa cử và giáo dục Việt Nam, NXB Tổng hợp TP HCM, 2005, trang 406).
2: Lúc này Trần Tiễn Thành đang là thụ Hiệp biện, tiến thự Văn Minh điện đại học sĩ, nắm quyền ở viện cơ mật, một vị đại thần được vua Tự Đức tin dùng.
3: Chức quan như là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ngày nay.
Đọc tiếp…

Cậu bé Quảng Trị được so sánh như google

Khả năng tính nhẩm cực nhanh cùng vốn kiến thức sâu rộng của cậu bé đến từ Quảng Trị khiến cộng đồng nể phục.


Phan Đăng Nhật Minh là một trong 24 thí sinh xuất sắc tham gia cuộc Chinh Phục Trí tuệ thiếu nhi Việt Nam (Vietnam's Brainiest Kid) năm 2014. Vượt qua nhiều đối thủ, cậu học trò đến từ Quảng Trị đã lọt vào vòng chung kết và khiến khán giả khâm phục khi trổ tài trả lời siêu nhanh và chuẩn xác đối với các câu hỏi trong chương trình.

Video là hình ảnh diễn ra từ cuối năm 2014, nhưng mới được chia sẻ nhiều trên Facebook những ngày gần đây và thu hút hàng nghìn lượt xem. Điều khiến người xem thực sự ấn tượng ở Nhật Minh là khả năng tính nhẩm cực nhanh cùng sự am hiểu đáng ngưỡng mộ đối với lĩnh vực văn học, sinh học. Trong video ghi lại phần thi của Minh tại vòng chung kết Chinh phục, cậu học sinh dường như không cần suy nghĩ trước những phép tính phức tạp và đưa ra câu trả lời chính xác ngay trước khi MC Vân Hugo đọc xong câu hỏi. Chính vì thế, nhiều người đã gọi đùa Nhật Minh là "Cậu bé Google".



Bằng sự nhanh nhạy và vốn kiến thức sâu rộng, Phan Đăng Nhật Minh đã trở thành quán quân đầu tiên của cuộc thi trí tuệ dành cho học sinh cấp 2 và được du học trong vòng 4 tuần tại Đại học Cambridge, Anh cùng một chuyến du lịch đến Paris trị giá 300 triệu đồng.

Trước đó, tại vòng sơ khảo của cuộc khi Chinh phục, Phan Đăng Nhật Minh đã khiến những người làm chương trình vô cùng ấn tượng khi thể hiện tài tính nhẩm cực nhanh, cực chuẩn xác. Trước khi tỏa sáng tại cuộc thi trí tuệ này, Minh là niềm tự hào của gia đình khi biết đọc và làm Toán từ lúc mới 18 tháng tuổi.

Clip 1:




Clip 2:

Đọc tiếp…